Lịch sử kiểm toán độc lập ở Việt Nam

Bạn đang muốn tìm hiểu về ngành kiểm toán độc lập nhưng bạn chưa có nhiều thông tin, Bạn đang muốn tìm hiểu về ngành kiểm toán tại Việt Nam và trên thế giới? …. Bài viết này công ty dịch vụ kế toán kiểm toán long An sẽ chia sẻ chủ đề này chi tiết nhất đến với các bạn đọc.

Kiểm toán độc lập là gì? – Lịch sử kiểm toán độc lập ở Việt Nam

Kiểm toán độc lập là việc kiểm toán viên hành nghề, doanh nghiệp kiểm toán, chi nhánh doanh nghiệp kiểm toán nước ngoài tại Việt Nam kiểm tra, đưa ra ý kiến độc lập của mình về báo cáo tài chính và công việc kiểm toán khác theo hợp đồng kiểm toán.

Lịch sử kiểm toán độc lập ở Việt Nam

Lịch sử kiểm toán độc lập ở Việt Nam

Nền kinh tế thị trường đòi hỏi các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế quản lý và điều hành sản xuất kinh doanh cần phải có thông tin chính xác, kịp thời và tin cậy. Để đáp ứng yêu cầu này phải có bên thứ 3 độc lập khách quan, có trình độ chuyên môn cao, được pháp luật cho phép cung cấp thông tin tin cậy cho các bên quan tâm.

>>> Xem thêm: https://caf-global.com/bang-gia-dich-vu-kiem-toan/

Lịch sử nghành kiểm toán trên thế giới – Lịch sử kiểm toán độc lập ở Việt Nam

Kiểm toán ra đời vào khoảng thế kỷ thứ ba trước công nguyên gắn liền với nền văn minh Ai Cập và La Mã cổ đại. Ở thời kỳ đầu, kiểm toán chỉ mới ở mức độ sơ khai, biểu hiện là những người làm công tác kiểm toán đọc to những số liệu, tài liệu cho một bên độc lập nghe và sau đó chứng thực.

Khi xã hội phát triển xuất hiện của cải dư thừa, hoạt động kế toán ngày càng được mở rộng và ngày một phức tạp thì việc kiểm tra, kiểm soát về kế toán và tài chính càng được quan tâm hơn chú trọng hơn trước nhằm đảm bảo số liệu trung thực và hợp lý trên các khía cạnh trọng yếu.

Cùng với sự phát triển của thị trường, sự tích tụ và tập trung tư bản đã làm cho sự phát triển của các doanh nghiệp và các tập đoàn ngày càng mở rộng. Sự tách rời giữa quyền sở hữu của ông chủ và người quản lý, người làm công ngày càng xa, đã đặt ra cho các ông chủ một cách thức kiểm soát mới.

Phải dựa vào sự kiểm tra của những người chuyên nghiệp hay những kiểm toán viên bên ngoài. Việc kiểm tra đi dần từ việc kiểm tra ghi chép kế toán đến tuân thủ quy định của pháp luật và mãi đến những thập niên 80, kiểm toán hoạt động bắt đầu được hình thành và phát triển, nhưng hiện nay đã trở thành lĩnh vực trung tâm của kiểm toán nói chung, đặc biệt là kiểm toán Nhà nước và kiểm toán nội bộ.

Vào những năm 30 của thế kỷ XX, từ việc phá sản của hàng loạt tổ chức tài chính và sự khủng hoảng kinh tế trên thế giới đã bộc lộ rõ những hạn chế của kiểm tra kế toán, sự kiểm tra trên cùng một hệ thống. Chính từ đây, việc kiểm tra kế toán buộc phải được chuyển sang một giai đoạn mới, yêu cầu kiểm tra kế toán một cách độc lập đã được đặt ra.

Tại Hoa Kỳ sau khủng hoảng về tài chính vào những năm 1929, đến năm 1934 Ủy ban bảo vệ và trao đổi tiền tệ (SEC) đã xây dựng và ban hành quy chế về kiểm toán viên bên ngoài. Đồng thời, trường đào tạo kế toán viên công chứng của Hoa Kỳ (AICPA) đã in ra mẫu chuẩn đầu tiên về báo cáo kiểm toán tài khoản của các công ty. Cũng trong giai đoạn này, ở các tổ chức kinh doanh, các doanh nghiệp đã bắt đầu xuất hiện và phát triển chức năng kiểm tra một cách độc lập trong nội bộ với tên gọi kiểm toán nội bộ.

Năm 1942 Viện kiểm toán nội bộ Hoa Kỳ (IIA) được thành lập và đã đi vào hoạt động đào tạo các kiểm toán viên nội bộ. Đồng thời, Viện đã xây dựng và ban hành Hệ thống chuẩn mực kiểm toán nội bộ Hoa Kỳ vào năm 1978.

Đôi nét về kiểm toán dịch vụ tại Việt Nam

Kiểm tra nói chung và kiểm tra kế toán nói riêng được quan tâm ngay từ thời kỳ đầu xây dựng đất nước.Tuy nhiên trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung, công tác kiểm tra cũng được tổ chức phù hợp với cơ chế: Nhà nước với tư cách là người quản lý vĩ mô, đồng thời là người chủ sở hữu nắm trong tay toàn bộ công tác kế toán và kiểm tra nói chung.

Kiểm toán độc lập ở Việt Nam

Kiểm toán độc lập ở Việt Nam

Năm 1957, lần đầu tiên Nhà nước ban hành chế độ sổ sách kế toán bao gồm gần 27 nhật ký dùng cho các đơn vị kinh tế thuộc sở hữu Nhà nước.Trong mỗi nhật ký đã kết hợp cả yêu cầu thông tin cho quản lý và yêu cầu kiểm tra hoạt động tài chính. Đây là dấu mốc đầu tiên thể hiện mục tiêu thể chế và thực hiện sự thống nhất và tiêu chuẩn hoá công tác kế toán, kiểm tra đất nước để phục vụ cho yêu cầu quản lý của xí nghiệp và của Nhà nước

Năm 1967, Liên Bộ Thống kê và Tài chính đã ban hành chế độ ghi chép áp dụng cho các xí nghiệp quốc doanh và một loạt các chế độ về tài khoản kế toán .

Năm 1971, Nhà nước chế độ kế toán thống nhất, chế độ kế toán đã khá hoàn thiện và tiêu chuẩn hoá được nâng cao.

Năm1988, Nhà nước ban hành pháp lệnh kế toán thống kê, nhằm đưa công tác kế toán vào kỷ cương, tăng cường pháp chế cho kế toán.

Năm 1989, trước nhu cầu biến đổi có tính chất cách mạng trong cơ chế quản lý kinh tế đất nước, sự thừa nhận một cách tất yếu khách quan nền sản xuất hàng hoá, kinh tế thị trường và một kiểu quản lý tài chính thích hợp với nó, chế độ kế toán mới ban hành cho chế độ kế toán trước đây.

Tuy nhiên, chế độ kế toán ban hành năm 1989 vẫn còn khoảng cách khá xa so với thông lệ quốc tế và có những điểm chưa bắt nhịp với cơ chế thị trường.

Năm 1994, Thủ tướng Chính phủ đã chỉ thị và trực tiếp chỉ đạo cải cách kế toán. Tháng 2/1995 hệ thống kế toán tài chính doang nghiệp chính thức được ban hành.

Nhìn chung, chế độ kế toán đã phù hợp với từng giai đoạn lịch sử. Thể chế thông tin – kiểm tra bằng kế toán trong một cơ chế thị trường, cho họ yêu cầu quản lý Nhà nước, tài chính doanh nghiệp

Thể hiện sự phân biệt thông tin quản lý của kế toán so với các loại thông tin khác trong hệ thống thông tin kinh tế. Phục vụ cho sự quản lý thống nhất của Nhà nước về các lĩnh vực tài chính trong cơ chế mới, thể hiện tính chất thống nhất và tiêu chuẩn hoá cao về thông tin kế toán, phần nào đã tiếp cận được ngôn ngữ thông tin và những chuẩn mực quốc tế về kế toán.

Những công ty kiểm toán độc lập đầu tiên ra đời tại Việt Nam

Hoạt động kiểm toán độc lập đã hình thành và phát triển ở nước ta từ trước ngày giải phóng miền Nam: Các văn phòng hoạt động độc lập với các kế toán viên công chứng hoặc các giám định viên kế toán và cả văn phòng kiểm soát quốc tế như SGV, Arthur Andersen …

Sau thống nhất đất nước, trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung, kiểm toán độc lập không còn tồn tại. Vì vậy kiểm toán độc lập mới được hình thành từ sau khi chuyển đổi cơ chế kinh tế Với chủ chương đa dạng hoá các loại hình sở hữu đa phương hoá các loại hình đầu tư đã đặt ra những đòi hỏi của kiểm toán độc lập.

Ngày 13/5/1991 theo giấy phép số 957/PPLT của Thủ tướng Chính phủ, Bộ tài chính đã ký quyết định thành lập hai công ty: Công ty kiểm toán Việt Nam với tên giao dịch là VACO (QĐ 165-TC/QĐ/TCCB) và công ty dịch vụ kế toán Việt Nam với tên giao dịch là ASC (QĐ164-TC/QĐ/TCCB) sau này đổi tên thành Công ty dịch vụ tư vấn tài chính, kế toán, kiểm toán – AASC (quyết định 639-TC /QĐ/ TCCB ngày 14/9/1993).

Hai công ty dịch vụ kiểm toán VACO và AASC đã có nhiều đóng góp không chỉ trong việc phát triển công ty, mở rộng đại bàn kiểm toán mà cả trong việc cộng tác với công ty và tổ chức nước ngài để phát triển sự nghiệp kiểm toán Việt Nam.

Cũng trong năm 1991, còn có công ty Ernst and Young là công ty kiểm toán nước ngoài đầu tiên được Nhà nước Việt Nam cho chấp nhận lập văn phòng hoạt động tại Việt Nam.

Quý khách hàng có nhu cầu kiểm toán báo cáo tài chính, kiểm toán nội bộ, kiểm toán quyết toán dự án hoàn thành hãy liên hệ với dịch vụ kế toán CAF để được tư vấn miễn phí.

Vai trò của kiểm toán độc lập hiện nay

Để phát huy vai trò của kiểm toán độc lập trong bối cảnh hội nhập, thời gian tới cần định hướng cho sự phát triển hệ thống kiểm toán độc lập theo các nội dung sau:

Quán triệt đường lối của Đảng và tuân thủ pháp luật của Nhà nước về phát triển phân ngành kiểm toán độc lập ở Việt Nam;

Phát triển đồng bộ hệ thống kiểm toán, trong đó kế toán độc lập. Trong mỗi giai đoạn sẽ đặt ra cho hệ thống kiểm toán độc lập những yêu cầu cụ thể về tổ chức bộ máy, mục đích hoạt động, phương thức tổ chức thực hiện các nhiệm vụ kiểm toán;

Tăng cường quản lý nhà nước, phát huy vai trò của các tổ chức nghề nghiệp trong lĩnh vực hoạt động kiểm toán độc lập.

Để triển khai được các định hướng trên, Nhà nước và các cơ quan, tổ chức kinh tế, các tổ chức kiểm toán cần thực hiện đồng bộ các giải pháp sau:

Thứ nhất

Hoàn thiện môi trường pháp lý của hoạt động kiểm toán. Kiểm toán chỉ hoạt động có hiệu quả và phát triển mạnh mẽ trong điều kiện môi trường pháp luật hoàn chỉnh và ổn định. Theo đó, cần sớm nghiên cứu hoàn thiện khuôn khổ pháp lý nhằm tạo lập môi trường pháp lý ổn định, phù hợp cho sự phát triển của kiểm toán độc lập; cần bổ sung quy định về kiểm toán bắt buộc đối với một số loại hình doanh nghiệp. Bổ sung quy định về chế độ chịu trách nhiệm khi cung cấp thông tin kiểm toán và bồi thường vật chất nếu thông tin bị sai lệch nhằm bảo vệ người sử dụng thông tin kiểm toán, đồng thời là điều kiện để nâng cao chất lượng dịch vụ kế toán, kiểm toán.

Thứ hai

Tăng cường năng lực, phân định chức năng, nhiệm vụ và xác lập mối quan hệ giữa các phân hệ trong hệ thống kiểm toán. Từng phân hệ, nhất là kế toán độc lập phải chủ động phát triển nguồn nhân lực đủ về số lượng, đảm bảo chất lượng. Việc phát triển nguồn nhân lực với trình độ chuyên môn cao cần phải có chiến lược đào tạo của quốc gia, nhất là tại các trường đại học, học viện. Cùng với phát triển nguồn nhân lực, phân hệ kế toán độc lập cũng cần phải bổ sung và hoàn thiện hệ thống chuẩn mực, quy trình kiểm toán; phương pháp chuyên môn nghiệp vụ; phát triển các loại hình kiểm toán và ứng dụng khoa học kỹ thuật vào công tác kiểm toán.

Thứ ba

Kinh tế Việt Nam trong quá trình phát triển và hội nhập kinh tế quốc tế, phát sinh nhiều vấn đề mới về tài chính vĩ mô, vi mô và xuất hiện thêm đối tượng trực tiếp của kiểm toán như: các dự toán ngân sách, các chương trình, dự án đầu tư từ nguồn vốn viện trợ, tài trợ; thực hiện cam kết theo các nghị định thư, hiệp định của các chính phủ; các chỉ số quốc gia theo thông lệ quốc tế… Thực tế này đòi hỏi các tổ chức công tác kiểm toán phải có những đổi mới cả về chiều rộng lẫn chiều sâu; Tăng cường chức năng tư vấn của hoạt động kiểm toán, phát triển, đa dạng hóa dịch vụ tư vấn của các doanh nghiệp kiểm toán độc lập.

Thứ tư

Tăng cường quản lý và kiểm soát chất lượng hoạt động kiểm toán. Hội nghề nghiệp cũng cần tăng cường các hoạt động hướng dẫn nghiệp vụ kiểm toán, chủ động xây dựng chương trình đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ cho kế toán viên, tổ chức thi và cấp chứng chỉ kế toán viên độc lập; đồng thời, cần đưa ra các biện pháp hữu hiệu nhằm giám sát việc thực hiện chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp, cũng như tăng cường chất lượng kiểm toán.

Thứ năm

Nâng cao nhận thức về hoạt động kiểm toán độc lập. Việc đẩy mạnh tuyền truyền về vai trò, tác dụng của kiểm toán độc lập, để các nhà quản lý, các nhà đầu tư, doanh nghiệp và công chúng kịp thời nắm bắt thông tin, góp phần thúc đẩy sự phát triển của kiểm toán độc lập trong bối cảnh hiện nay.

Thứ sáu

Đẩy mạnh hợp tác quốc tế về hoạt động kiểm toán: Với sự phát triển mạnh mẽ của các tổ chức kế toán quốc tế, kiểm toán như IFAC, INTOSAI, ASOSAI… mà Việt Nam là thành viên thì việc trao đổi kinh nghiệm, kỹ năng nghề nghiệp mang tính toàn cầu là tất yếu và đó cũng là điều kiện quan trọng giúp cho các kiểm toán viên, các tổ chức kiểm toán và hội nghề nghiệp kiểm toán của Việt Nam trao đổi kỹ năng nghề nghiệp, tiếp cận với phương pháp chuyên môn, nghiệp vụ kiểm toán mới và ngày càng phát triển mạnh mẽ.

Dịch vụ kiểm toán chúc quý doanh nghiệp nhiều thành công. 

KẾ TOÁN – TƯ VẤN THUẾ – KIỂM TOÁN ĐỘC LẬP

Hotline: 098 225 4812. 

HÃY GỌI NGAY KIỂM TOÁN ĐỘC LẬP: 0867 004 821 ( 24/7 ) –  0971 373 146.

CHÚNG TÔI LUÔN SẴN SÀNG ĐỂ HỖ TRỢ DOANH NGHIỆP!

Chia sẻ thông tin này!